THỜI BÁO VIỆT - ÚC
Gắn kết - Hội nhập - Phát triển
Theo trang mạng aspistrategist.org.au, Trung Quốc đã thất bại trong chiến dịch cưỡng chế kinh tế đối với Australia. Nguyên nhân là do Australia đã nhận được sự hỗ trợ từ các đối tác thương mại châu Á khác - những nước đã quay sang Australia để đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng của họ.
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và Ấn Độ - các thị trường xuất khẩu lần lượt lớn thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ năm của Australia - mỗi nước và vùng lãnh thổ này đã tăng gấp đôi lượng hàng hóa mua của Australia kể từ năm 2019, giúp Australia đẩy lùi cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các ngành xuất khẩu chính của “xứ sở Chuột túi” bắt đầu từ năm 2020.
Xuất khẩu của Australia sang Việt Nam và Indonesia cũng tăng hơn gấp đôi, trong khi xuất khẩu sang Philippines tăng 82%. Tuy nhiên, các đồng minh và đối tác trong thoả thuận quốc phòng ba bên (AUKUS) thân cận nhất của Australia là Mỹ và Anh hầu như không hỗ trợ gì được cho Canberra trong bối cảnh Australia phải đối mặt với sự phong tỏa thương mại của Trung Quốc. Việc sắp xếp lại các thị trường xuất khẩu của Australia chủ yếu được thúc đẩy bởi nhu cầu đối với than và khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Australia. Sự gián đoạn của thị trường năng lượng toàn cầu do cuộc xung đột Nga-Ukraine đã dẫn đến tình trạng thiếu cả hai loại năng lượng này, khiến giá cả tăng vọt.
Số tiền mà Nhật Bản mua than của Australia đã tăng vọt từ 17 tỷ AUD (11,3 tỷ USD) năm 2019 lên 57 tỷ AUD (38 tỷ USD) năm 2022, trong khi kim ngạch nhập khẩu LNG của nước này từ Australia tăng 70% lên 35 tỷ AUD. Số tiền mà Hàn Quốc mua than từ Australia cũng tăng 140% lên 17,2 tỷ AUD, còn lượng khí đốt mà nước này nhập từ Australia tăng gấp 3 lần, lên 13 tỷ AUD.
Trong khi đó, do bị mất nguồn cung cấp than từ Australia, Trung Quốc phải hứng chịu tình trạng mất điện ở nhiều thành phố trong năm 2020, trong khi các hoạt động sản xuất thép của nước này phải chịu hậu quả do sử dụng quá nhiều than nội địa kém chất lượng, khiến tuổi thọ của các lò luyện cốc của nước này bị rút ngắn. Năm 2019, số tiền mà Trung Quốc mua than của Australia là 13,7 tỷ AUD, nhưng đến năm 2022, Trung Quốc đã ngừng nhập than của Australia. Sau khi quan hệ thương mại giữa hai nước “tan băng” năm 2023, than là mặt hàng đầu tiên mà Trung Quốc bắt đầu mua lại từ Australia.
Sự chuyển đổi thị trường thương mại của Australia là phi thường. Năm 2019, trước khi Trung Quốc bắt đầu chiến dịch cưỡng chế, thị trường của Australia tại Trung Quốc lớn hơn 81% so với tổng doanh số bán của Australia sang Nhật Bản và Hàn Quốc - hai thị trường lớn thứ hai và thứ ba của Australia. Thực tế là không có sự cạnh tranh nào đối với sự thống trị của Trung Quốc. Đến năm 2022, thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc kết hợp có quy mô gần bằng Trung Quốc, chỉ giảm 3,7%. Sự chuyển đổi trong hồ sơ thương mại của Australia là rõ ràng trên khắp châu Á. 10 đối tác thương mại lớn nhất ở châu Á, ngoại trừ Trung Quốc và Hong Kong (Trung Quốc), hiện nhập khẩu hàng hóa của Australia nhiều hơn 80% so với Trung Quốc. Ba năm trước, nhập khẩu kết hợp của họ từ Australia bằng Trung Quốc.
Trung Quốc từ lâu đã sử dụng quyền tiếp cận thị trường như một công cụ để đạt được mục đích chính trị ở thị trường nước ngoài, kể từ khi các cuộc tẩy chay các sản phẩm của Mỹ diễn ra đầu những năm 1900 nhằm yêu cầu thay đổi chính sách di cư của Mỹ lúc bấy giờ.
Nghiên cứu học thuật đầu tiên về việc Trung Quốc sử dụng thương mại như một vũ khí được viết vào năm 1930. Thời gian gần đây, Na Uy, Pháp, Philippines, Nhật Bản và Hàn Quốc đều bị Trung Quốc tẩy chay. Tuy nhiên, chưa bao giờ có một chiến dịch nào lớn và có mục tiêu như chiến dịch mà Trung Quốc phát động chống lại Australia sau khi chính phủ của cựu Thủ tướng Scott Morrison kêu gọi điều tra về nguồn gốc của dịch COVID-19. Bất chấp thuế quan phân biệt đối xử của Trung Quốc đối với rượu vang và lúa mạch của Australia cũng như các lệnh cấm không chính thức và bất hợp pháp của nước này tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đối với than đá, thịt bò, tôm hùm, bông, gỗ, nickel và đồng cô đặc của Australia, tổng lượng hàng hóa mua từ Australia vẫn tăng 16,6% trong 3 năm kể từ năm 2019, trước chiến dịch bắt đầu, và năm 2022. Điều này chủ yếu là do giá quặng sắt của Australia tăng nhanh, sản phẩm mà ngành thép của Trung Quốc không thể thiếu.
Do phụ thuộc nhiều hơn vào Australia nên không có gì ngạc nhiên khi Nhật Bản hiện lo ngại về hàng loạt biện pháp can thiệp theo quy định đối với ngành năng lượng của Australia, bao gồm các mối đe dọa hạn chế xuất khẩu LNG và tăng mạnh tiền bản quyền than của bang Queensland vào năm ngoái. Có thông tin cho biết thuế thuê tài nguyên đối với LNG ngoài khơi sẽ được tăng đáng kể trong ngân sách tháng Năm tới mà có thể gây lo ngại về rủi ro chủ quyền đối với các công ty đã xây dựng các nhà máy LNG lớn theo chế độ thuế hiện hành trong thời kỳ bùng nổ. Đại sứ Nhật Bản tại Australia Shingo Yamagami đã nhiều lần cảnh báo rằng niềm tin của các nhà đầu tư Nhật Bản vào Australia đang lung lay. Nhà máy Inpex LNG tại Darwin là khoản đầu tư nước ngoài lớn nhất của Nhật Bản. Phát biểu tại một diễn đàn hồi tháng Ba vừa qua, ông Yamagami nói rằng “thật khó để tưởng tượng các ánh đèn neon của Tokyo sẽ tắt, nhưng với việc Australia hiện cung cấp 70% than đá, 60% quặng sắt và 40% lượng khí đốt nhập khẩu của Nhật Bản, đây chính xác là điều sẽ xảy ra nếu Australia ngừng sản xuất các nguồn năng lượng”.
Các nhà lãnh đạo của Hàn Quốc và Ấn Độ cũng đã bày tỏ quan ngại về an ninh năng lượng của họ với Thủ tướng Australia Anthony Albanese. Đài Loan đã vượt Mỹ và Ấn Độ để trở thành thị trường xuất khẩu quan trọng thứ tư của Australia, với lượng mua vào năm 2022 gần 30 tỷ AUD. Số tiền mua than của Australia đã tăng từ 5,3 tỷ AUD lên 13,8 tỷ AUD kể từ năm 2019, trong khi lượng nhập khẩu LNG đã tăng hơn 4 lần, lên 9 tỷ AUD. Giống như Nhật Bản và Hàn Quốc, Đài Loan cũng đã ồ ạt dỡ bỏ việc mua bán “các mặt hàng thương mại bí mật”. Đây là những hàng hóa mà việc tiết lộ doanh số bán hàng được cho là sẽ gây nguy hiểm cho bí mật thương mại: chúng bao gồm mọi thứ từ hạnh nhân đến bóng golf, nhưng có thể bao gồm cả alumin và tinh quặng đồng, nickel và mangan. Giữa ba quốc gia và vùng lãnh thổ này, các giao dịch đã tăng từ 2,5 tỷ AUD lên 12 tỷ AUD trong 3 năm qua.
Nước mua than lớn thứ hai của Australia hồi năm ngoái là Ấn Độ, với giá trị nhập khẩu là 23 tỷ AUD, tăng từ mức 10 tỷ AUD cách đây 3 năm. Than chiếm 80% doanh số bán hàng của Australia sang Ấn Độ vào năm ngoái. Ấn Độ cũng đã trở thành một khách hàng mua vàng quan trọng của Australia, với doanh thu tăng từ 266 triệu AUD lên 1,5 tỷ AUD trong 3 năm qua. Trong khi than đá và LNG chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nhu cầu ngày càng tăng của châu Á đối với hàng hóa Australia, các mặt hàng khác bị Trung Quốc coi là mục tiêu trừng phạt cũng đã tìm thấy thị trường ở những nơi khác. Việt Nam trở thành nước mua bông lớn nhất của Australia với giá trị nhập khẩu là 1,7 tỷ AUD, tăng từ 115 triệu USD cách đây 3 năm, trong khi lượng mua của Indonesia tăng gấp 5 lần lên 515 triệu AUD. Lượng mua lúa mạch của Nhật Bản tăng 140% lên 508 triệu AUD, trong khi lượng mua lúa mì tăng mạnh trên toàn khu vực.
Do không cần đến các mặt hàng của Australia nên Mỹ, Anh và New Zealand hầu như không hỗ trợ được gì cho Australia khi Canberra phải đối mặt với các lệnh cấm vận của Trung Quốc. Xuất khẩu của Australia sang Mỹ tăng 37% trong 3 năm, chủ yếu là vàng. Thị phần của các mặt hàng xuất khẩu của Australia sang Mỹ giảm xuống 3,3%, trượt từ vị trí thứ tư xuống vị trí thứ sáu trong số các thị trường Australia. New Zealand đã tụt hạng từ thị trường xuất khẩu lớn thứ 8 xuống thứ 10 của Australia, trong khi Anh hiện đứng thứ 19, chỉ chiếm 0,5% xuất khẩu của Australia. Cho đến những năm 1950, thị phần của nước này là hơn 40%./.
Thoibaovietuc.com/Nguồn aspistrategist.org.au
Copyright © 2022 Thời báo Việt Úc. All Rights Reserved