THỜI BÁO VIỆT - ÚC
Gắn kết - Hội nhập - Phát triển
Thái Bình Dương không có vấn nạn ma túy. Úc và New Zealand thì có. Và nhu cầu ma túy bất hợp pháp không ngừng của chúng ta đang gây bất ổn cho khu vực.
Một báo cáo gần đây trên tờ The Australian cảnh báo rằng những người dân đảo Thái Bình Dương bị trục xuất khỏi Úc và New Zealand đang tiếp tay cho một làn sóng tội phạm có tổ chức trên khắp đất nước họ. Bài báo đã chỉ ra những triệu chứng bề nổi - hoạt động băng đảng gia tăng, rửa tiền và mạng lưới buôn người - nhưng lại bỏ qua những chẩn đoán sâu xa hơn.
Động lực thực sự của thách thức tội phạm có tổ chức ở Thái Bình Dương không nằm ở Suva, Nuku'alofa hay Honiara; mà là ở Sydney, Auckland và Melbourne. Khi nói đến các "nhà nước ma túy" ở Thái Bình Dương, chúng ta thường vội vàng gán cho một cái mác che giấu nhiều hơn là phơi bày.
Những quốc gia này không biến thành thủ phủ cocaine hay thị trường methamphetamine. Thay vào đó, họ đang bị lôi kéo vào quỹ đạo của các nền kinh tế tội phạm xuyên quốc gia được thiết kế để cung cấp thực phẩm cho người tiêu dùng Úc và New Zealand.
Những tuyên bố cho rằng các quốc đảo Thái Bình Dương có nguy cơ trở thành "nhà nước ma túy" có nguy cơ bóp méo bản chất cơ bản của tội phạm có tổ chức trong khu vực. Thái Bình Dương không phải là nguồn gốc của vấn đề mà là con đường giao thoa giữa rủi ro và cơ hội.
Trong nhiều thập kỷ, các quốc đảo nhỏ đã phải xoay xở với lực lượng cảnh sát mỏng, giám sát hàng hải hạn chế và hệ thống tư pháp thiếu nguồn lực. Họ phải đối mặt với áp lực phát triển phức tạp và tác động của biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh này, các mạng lưới tội phạm xuyên quốc gia đã tìm được chỗ đứng không phải vì nhu cầu địa phương đang bùng nổ mà vì các kẽ hở trong quản lý còn rất rộng.
Mặc dù chính sách trục xuất của Úc và New Zealand chưa thực sự hiệu quả, nhưng chúng ta không nên cường điệu hóa chúng như chất xúc tác chính cho tội phạm có tổ chức ở Thái Bình Dương. Trong hầu hết các trường hợp, những người bị trục xuất là những kẻ tái phạm hoặc phạm tội bạo lực, và việc trục xuất này là một hành động chính đáng nhằm bảo vệ cộng đồng Úc và New Zealand.
Những cá nhân này khó có thể là những kẻ chủ mưu điều hành các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia. Tuy nhiên, việc họ trở về các khu vực pháp lý nhỏ bé, mong manh cũng tạo ra những rủi ro thứ cấp. Nhiều người đến đây với mối quan hệ gia đình hạn chế, ít triển vọng việc làm và ít được hỗ trợ tái hòa nhập. Trong môi trường khan hiếm cơ hội và các thể chế thiếu nguồn lực, ngay cả những tội phạm cấp thấp cũng có thể tái hòa nhập với các mạng lưới tội phạm hoặc trở nên hữu ích cho các đối tượng tinh vi hơn. Rủi ro không nằm ở ý định của họ mà nằm ở việc hệ thống không thể tiếp nhận họ.
Tình hình này càng trở nên tồi tệ hơn do đặc điểm địa lý của nhu cầu. Thu nhập khả dụng cao và vị trí tương đối biệt lập của Úc và New Zealand khiến hai quốc gia này trở thành hai trong số những thị trường ma túy sinh lời nhất thế giới. Methamphetamine và cocaine được bán với giá mà các băng đảng ở châu Mỹ hay Đông Nam Á chỉ dám mơ ước. Thái Bình Dương, nằm giữa cung và cầu, trở thành hành lang trung chuyển và rửa tiền lý tưởng.
Việc mô tả khu vực này đang trượt dốc vào tình trạng nhà nước ma túy là hiểu sai về kinh tế học cơ bản. Không phải Thái Bình Dương đã thay đổi; mà chính quy mô, sự tinh vi và tính bền vững của thị trường của chúng ta đã biến nó thành một cửa ngõ sinh lợi.
Việc gán nhãn sai lệch này cũng có cái giá của nó. Khi chúng ta định hình vấn đề như một cuộc khủng hoảng ma túy ở Thái Bình Dương, chúng ta đang hợp thức hóa những phản ứng coi các quốc gia này là những quốc gia thất bại thay vì là đối tác. Chúng ta cũng tự giải thoát mình khỏi trách nhiệm đối với nhu cầu thúc đẩy hoạt động buôn bán ma túy.
Thách thức về tội phạm có tổ chức ở Thái Bình Dương có thể được hiểu như một tấm gương phản ánh mức tiêu dùng, lựa chọn chính sách và sự không sẵn lòng của chúng ta trong việc kết hợp chiến lược trong nước và khu vực.
Con đường phía trước đòi hỏi một cách tiếp cận trung thực và tinh tế hơn. Trước hết, Úc và New Zealand phải thừa nhận rằng giảm nhu cầu trong nước là cách hiệu quả nhất để phá vỡ nền kinh tế tội phạm của khu vực. Mỗi gram ma túy đá được mua ở Sydney hoặc Auckland đều tiếp thêm nhiên liệu cho các mạng lưới, gây bất ổn cho các nước láng giềng.
Thứ hai, trục xuất phải đi đôi với tái hòa nhập. Việc đưa người phạm tội trở về những môi trường không đủ điều kiện hỗ trợ họ là một cách để mở rộng mạng lưới. Chúng ta nên đồng tài trợ cho các chương trình phục hồi chức năng và giám sát có cấu trúc với các chính phủ Thái Bình Dương, chứ không chỉ đơn giản là chuyển gánh nặng ra nước ngoài.
Thứ ba, hợp tác cảnh sát khu vực nên ưu tiên các năng lực dài hạn, tình báo tài chính, thực thi pháp luật trên biển và các biện pháp chống tham nhũng hơn là các vụ bắt giữ mang tính biểu tượng và triển khai ngắn hạn.
Nếu chúng ta nghiêm túc với gia đình Thái Bình Dương của mình, chúng ta phải ngừng đổ lỗi cho những người hàng xóm về những tệ nạn của mình. Thách thức của tội phạm có tổ chức ở Thái Bình Dương không phải là bằng chứng của sự suy thoái đạo đức; nó là bằng chứng cho thấy các nền kinh tế tội phạm xuyên quốc gia đang nắm bắt cơ hội. Cơ hội đó tồn tại là nhờ chúng ta.
Để xây dựng một Thái Bình Dương kiên cường, chúng ta phải chịu trách nhiệm về nhu cầu thúc đẩy sự dễ bị tổn thương của nó. Chúng ta phải vượt qua lối viết tắt lười biếng về "các quốc gia ma túy" và đầu tư vào các mối quan hệ đối tác dựa trên niềm tin, năng lực và trách nhiệm chung.
Vấn đề của Thái Bình Dương không phải là ma túy tràn lan trên đường phố. Mà là gánh nặng của hai quốc gia lớn hơn, nơi mà mức tiêu thụ và chính sách tiếp tục tạo ra rủi ro xuất khẩu. Cho đến khi chúng ta đối mặt với sự thật đó, các nước láng giềng sẽ tiếp tục phải trả giá cho thói quen của chúng ta./.
Bài viết của tác giả John Coyne - Giám đốc Chương trình An ninh Quốc gia của Viện Chiến lược Chính sách Úc (ASPI) được đăng trên tờ The Australian.
Copyright © 2022 Thời báo Việt Úc. All Rights Reserved