THỜI BÁO VIỆT - ÚC
Gắn kết - Hội nhập - Phát triển
Theo trang mạng The Strategist, đề nghị của Tổng thống Mỹ Joe Biden về việc coi Australia là nền kinh tế “nội địa” theo Đạo luật Sản xuất Quốc phòng của Mỹ có thể mang lại một “cú hích” rất cần thiết cho quan hệ kinh tế đang lao dốc giữa hai nước.
Mỹ chỉ mua 3,3% hàng hóa xuất khẩu của Australia trong năm tính đến tháng 3/2023, mức thấp nhất kể từ giai đoạn 1934-1935 - thời kỳ đỉnh điểm của cuộc chiến thuế quan sau cuộc Đại suy thoái.
Năm 2022, Singapore (với 6 triệu dân), còn mua nhiều hàng hóa của Australia hơn cả Mỹ - nước có 330 triệu dân. Mỹ, thị trường lớn thứ hai của Australia sau Nhật Bản cho đến năm 2004, hiện đứng thứ 7. Sự suy giảm của Mỹ với tư cách là một đối tác thương mại và việc nước này từ chối tham gia các hiệp định thương mại khu vực như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) càng củng cố những lập luận cho rằng tương lai của Australia nằm ở châu Á và Canberra nên có một thỏa thuận tạm thời với Bắc Kinh.
Thị phần của Mỹ trong hàng nhập khẩu của Australia đã khả quan hơn khi nước này vẫn là nhà cung cấp lớn thứ hai cho Australia sau Trung Quốc, nhưng ở quốc gia châu Đại Dương này, thị phần của Mỹ cũng đã giảm một nửa từ 20% xuống 10% trong 20 năm qua. Mặc dù cho đến nay, Mỹ vẫn là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Australia, nhưng điều này ngày càng giống như một di sản của quá trình mở rộng sau chiến tranh của tập đoàn đa quốc gia Mỹ đang cạn kiệt sức lực.
Theo Cục Thống kê Australia, các công ty Mỹ đã rút ròng 19 tỷ USD ra khỏi Australia trong 4 năm qua. Giá trị của tất cả các khoản đầu tư của Mỹ vào Australia đã giảm 16% kể từ năm 2019. Thực tế này có thể là do khoảng cách giữa thuế suất công ty của Mỹ và của Australia sau những cắt giảm thuế dưới thời chính quyền của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump. Thuế suất công ty của Australia là 30% - không có tính cạnh tranh quốc tế khi thuế suất của Mỹ là 21%.
Các số liệu đầu tư của Mỹ, được tổng hợp trên một cơ sở khác, cũng cho thấy các công ty Mỹ đang ngừng đầu tư vào Australia. Chúng cho thấy mức đầu tư của Mỹ vào Australia hầu như không thay đổi trong thập kỷ qua, chỉ tăng từ 165 tỷ USD năm 2012 lên 167 tỷ USD năm 2021.
Trong khi đó, các công ty của Australia vẫn tiếp tục đầu tư vào Mỹ. Theo dữ liệu của Cục Thống kê Australia, số cổ phần nắm giữ trị giá 193,1 tỷ USD của các công ty Australia hiện vượt quá số cổ phần của Mỹ tại Australia là 184,3 tỷ USD. Một lời giải thích rõ ràng cho sự suy giảm tầm quan trọng tương đối của Mỹ trong môi trường đầu tư của Australia là nước này không cần quặng sắt, khí đốt tự nhiên hóa lỏng hoặc than đá của Australia - ba mặt hàng lớn đã thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng trong thương mại của Australia với châu Á nói chung và với Trung Quốc nói riêng.
Bản chất của hoạt động kinh doanh toàn cầu của Mỹ cũng đã có sự thay đổi. Những “gã khổng lồ” công nghệ như Amazon, Facebook, Uber và Google không nhất thiết phải có trụ sở thực tế tại Australia để bán dịch vụ của họ tại đây. Australia không nhất thiết phải có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với đồng minh quân sự chính của mình, nhưng Mỹ sẽ giúp thuyết phục công chúng Australia về những lợi ích của liên minh nếu có nhiều lợi ích kinh tế chung hơn.
Mặc dù thương mại của Australia với Mỹ tương đối nhỏ, đặc biệt là về phía Mỹ, nhưng nó cho thấy một số xu hướng thú vị mà có thể chỉ ra tiềm năng tăng trưởng khi chính sách công nghiệp tích cực đang được phục hưng ở cả hai bờ Thái Bình Dương. Các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Australia sang Mỹ là vàng và thịt bò, nhưng theo sau đó là các sản phẩm dược phẩm, dụng cụ đo lường và phân tích, dụng cụ y tế và phụ tùng máy bay. Mỗi danh mục này cũng có trong hàng nhập khẩu từ Mỹ của Australia.
Năm ngoái, Australia đã nhập khẩu 2,4 tỷ USD máy bay và phụ tùng của Mỹ, đồng thời xuất khẩu 745 triệu USD. Nước này cũng đã nhập khẩu 1,8 tỷ USD dược phẩm của Mỹ (không bao gồm thuốc) và xuất khẩu 1,2 tỷ USD sang Mỹ; nhập khẩu 1,3 tỷ USD dụng cụ đo lường và xuất khẩu 784 triệu USD. Ở chiều ngược lại, Australia đã nhập khẩu 1,3 tỷ USD dụng cụ y tế từ Mỹ và xuất khẩu 750 triệu USD.
Mỗi sản phẩm này đều liên quan đến sản xuất tiên tiến, và thương mại Mỹ-Australia nêu bật một xu hướng quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa, trong đó các quốc gia buôn bán hàng hóa tương tự với nhau. Theo lý thuyết thương mại cổ điển, thương mại thịnh vượng từ sự khác biệt giữa các quốc gia; do đó, Australia xuất khẩu tài nguyên sang Nhật Bản và Trung Quốc, và nhập khẩu hàng hóa thành phẩm.
Xu hướng thương mại đối ứng có thể được nhìn thấy trong các lĩnh vực dịch vụ. Mặc dù Mỹ không góp mặt trong các lĩnh vực giáo dục và du lịch lớn của Australia, nhưng cho đến nay, đây là thị trường lớn nhất cho các dịch vụ kinh doanh, dịch vụ viễn thông và máy tính, dịch vụ tài chính và sở hữu trí tuệ của Australia. Ví dụ, trong lĩnh vực dịch vụ kinh doanh, doanh số bán hàng của Australia sang Mỹ trị giá 3,1 tỷ USD vào năm ngoái, trong khi nhập khẩu dịch vụ kinh doanh là 4,5 tỷ USD.
Chính sách công nghiệp có thể thúc đẩy thương mại đối ứng này. Ví dụ, khoảng 70 công ty Australia sản xuất các bộ phận cho máy bay chiến đấu F-35. Các công ty dược phẩm, vốn được hưởng lợi rất nhiều từ Chương trình phúc lợi dược phẩm của Australia, có động cơ xuất khẩu sản phẩm của họ sang đây.
Từ lâu, người ta đã thúc đẩy nội địa hóa nhiều hơn trong mua sắm quốc phòng và chính phủ Australia hiện theo đuổi kế hoạch trị giá 32 tỷ USD cho việc sản xuất tên lửa trong nước. Bài học về thương mại đối ứng là Australia sẽ thu được lợi ích bằng cách phát triển chuyên môn hóa trong sản xuất các bộ phận tên lửa, lĩnh vực mà nước này có thể đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô khi hợp tác với các nhà thầu quốc phòng lớn và có thể tạo dựng hoạt động xuất khẩu. Tự cung tự cấp là một mục tiêu an ninh quốc gia hoàn toàn hợp pháp, nhưng kinh tế học đứng về phía chuyên môn hóa trong các phần của quy trình và lợi nhuận ngày càng tăng theo quy mô.
Mục đích ban đầu của chính quyền Tổng thống Biden trong việc thúc đẩy Australia được công nhận là “nền kinh tế nội địa” theo Đạo luật Sản xuất Quốc phòng là để mở đường cho các nhà sản xuất và chế biến khoáng sản quan trọng của Australia được hưởng lợi từ thị trường và trợ cấp của Mỹ. Đây là lý thuyết thương mại cổ điển, tận dụng thế mạnh của Australia trong các mặt hàng không phù hợp ở Mỹ. Nó có giá trị đáng kể đối với Australia nếu nó hỗ trợ sự phát triển của một ngành công nghiệp trở thành nhà cung cấp chính cho quá trình chuyển đổi năng lượng, giống như quặng sắt, than đá và khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) của Australia đã hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa ở Nhật Bản và Trung Quốc.
Tuy nhiên, vẫn có tiềm năng hợp tác với Mỹ để hỗ trợ phát triển hơn nữa sự mở rộng của các dịch vụ cũng như các ngành sản xuất và thương mại tiên tiến./.
Thoibaovietuc.com/Nguồn The Strategist
Copyright © 2022 Thời báo Việt Úc. All Rights Reserved