Liệu châu Á có sẵn sàng cho một nền kinh tế toàn cầu mới?

Thứ Hai, 14/07/2025

5:06 pm(VN)

-

8:06 pm(AU)

dropdown weather

Đang hiển thị

Thành phố khác

Rao vặt
VN EN

Liệu châu Á có sẵn sàng cho một nền kinh tế toàn cầu mới?

06/10/2023

Tác giả bài viết trên báo The Straits Time ngày 18/9 cho rằng một thế giới đang rạn nứt và sự chậm lại của nền kinh tế Trung Quốc đặt ra những rủi ro mới cho châu Á. Tuy nhiên, cơ hội cũng nảy sinh từ những sự gián đoạn. Nội dung bài viết như sau:
 

Khi thị trường bất động sản của Trung Quốc chao đảo, vô số gia đình vướng vào vấn đề thanh toán. Nhiều người gặp khó khăn trong việc thanh toán thế chấp, thường là đối với những bất động sản mà họ vẫn chưa nhận được. Những người khác, giống như quản trị viên đại học Nelson Lau, 32 tuổi, bị mắc kẹt trong việc phải trả tiền mua một căn hộ mới nhưng gặp khó khăn khi bán bất động sản hiện có của mình trong bối cảnh giá nhà đất giảm.


Ở Ấn Độ, các trung tâm cuộc gọi đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan vì trí tuệ nhân tạo (AI). Mặc dù AI giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh và trải nghiệm khách hàng, nhưng nó cũng khiến doanh nhân Ấn Độ Suumit Shah phải sa thải hàng loạt nhân viên khỏi trang thương mại điện tử dukaan.com của mình. Anh đã viết một dòng tweet đầu năm nay: “Chúng tôi đã phải sa thải 90% êkíp hỗ trợ của mình vì chatbot AI này”.


Tình trạng tương tự cũng xảy ra hồi tháng 5 ở Philippines, nơi mà Thượng nghị sĩ Imee Marcos đã kêu gọi mở một cuộc điều tra khi trích dẫn nghiên cứu đánh giá rằng tự động hóa kỹ thuật số có thể khiến 1,1 triệu việc làm ở Philipines trở nên lỗi thời vào năm 2028. Bà nói: “AI đang phát triển nhanh hơn so với hình dung của hầu hết mọi người, đồng thời đe dọa lấy đi công ăn việc làm và làm đảo lộn tăng trưởng việc làm”.


Tuy nhiên, đó không hoàn toàn là thực tế u ám đối với Ấn Độ và Philippines. Hai quốc gia này, cùng với Thái Lan, Việt Nam và Indonesia, đang nhận được những khoản đầu tư mới từ Mỹ và châu Âu khi các chuỗi cung ứng được định hình lại.


Sau khi gặt hái được những lợi ích từ toàn cầu hóa và lãi suất cực thấp trong hơn một thập kỷ, các nền kinh tế châu Á giờ đây phải đối mặt với một thế giới rất khác. Hàng loạt cú sốc và đứt gãy đã xảy ra trong những năm gần đây mà ít ai có thể lường trước. Trong số đó có nhiều rạn nứt giữa Trung Quốc và Mỹ, một đại dịch toàn cầu, việc định hình lại các chuỗi cung ứng, tình trạng lạm phát gia tăng dẫn tới việc thắt chặt chính sách tiền tệ một cách nhanh chóng và hà khắc, thiên tai liên quan đến biến đổi khí hậu nhiều hơn, sự giảm tốc kinh tế có thể kéo dài ở Trung Quốc, và gần đây nhất là sự tăng tốc của tự động hóa được thúc đẩy bởi việc ứng dụng nhanh chóng AI. Tất cả những diễn biến này đang gây ra nhiều thay đổi mang tính kiến tạo trong nền kinh tế toàn cầu. Đối với châu Á, đó là nguồn gốc của những mối đe dọa và cơ hội, cũng là nguồn gốc của sự bất trắc lớn.


Ít nhất là trong năm tới, triển vọng sẽ bị che mờ bởi sự giảm tốc của nền kinh tế toàn cầu. Trong cập nhật tháng 7 về Triển vọng kinh tế thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu sẽ giảm từ 3,5% năm 2022 xuống 3,0% vào cả năm 2023 và 2024. Theo tiêu chuẩn lịch sử, tốc độ này yếu hơn rõ rệt so với tăng trưởng trung bình 3,6% trong giai đoạn 2010-2020.


Mặc dù suy thoái toàn cầu dường như khó có thể xảy ra, đặc biệt là khi tăng trưởng của Mỹ vẫn mạnh mẽ, nhưng nó không thể bị loại trừ, do việc thắt chặt tiền tệ – vẫn chưa kết thúc – phải mất 12-18 tháng mới tác động đầy đủ đến nền kinh tế thực, và do sự giảm tốc kinh tế ở Trung Quốc. Mặc dù lạm phát đã giảm trên toàn cầu trong năm nay, nhưng nó vẫn là một ẩn số. Giá lương thực và năng lượng tăng trong những tháng gần đây sau khi Nga từ chối nối lại thỏa thuận hồi tháng 7 cho phép tàu vận chuyển ngũ cốc từ Ukraine đi qua Biển Đen và Ấn Độ hạn chế xuất khẩu gạo. Trong khi đó, những tuyên bố gần đây của Saudi Arabia và Nga về việc cắt giảm nguồn cung dầu đã đẩy giá nhiên liệu tăng cao.


Tăng trưởng thương mại thế giới, mà các nền kinh tế của châu Á phụ thuộc nhiều, đang chậm lại – thậm chí còn chậm hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ước tính về mặt khối lượng, thương mại hàng hóa sẽ chỉ tăng 1,7% trong năm 2023, so với mức trung bình 2,6% trong 12 năm qua, kể từ sau khi nó sụp đổ trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.


Định hướng chính trị


Sự chậm lại một phần là kết quả của thương mại được thúc đẩy bởi chính trị nhiều hơn là bởi các yếu tố cơ bản về kinh tế và các quy tắc thương mại, dẫn đến lệnh cấm xuất khẩu các loại hàng hóa và công nghệ khác nhau, chủ nghĩa bảo hộ nhập khẩu gia tăng – bao gồm cả ở Mỹ và châu Âu – và tình trạng nội địa hóa hơn nữa các chuỗi cung ứng.

 

Thế nhưng, các lực lượng kinh tế cũng đóng một vai trò nhất định. Như ông David Lubin – người đứng đầu bộ phận kinh tế thị trường mới nổi tại Citigroup – đã chỉ rõ, bên cạnh tốc độ tăng trưởng GDP ảm đạm tự động dẫn đến thương mại chậm hơn, thế giới vẫn đang phải hứng chịu “tàn tích thương mại” sau đợt bùng phát đại dịch khi mọi người vung tiền mua sắm hàng hóa, đặc biệt là ở các nền kinh tế tiên tiến.


Giờ đây, họ đã chuyển chi tiêu sang dịch vụ, những mặt hàng ít giao dịch hơn so với hàng hóa. Tăng trưởng chậm hơn ở Trung Quốc cũng làm giảm nhu cầu đối với cả hàng hóa – mà Trung Quốc là nước nhập khẩu phần nhiều trong số đó – và hàng tiêu dùng. Sự chậm lại ở Trung Quốc, nước chiếm gần một nửa GDP của châu Á, có thể là sự gián đoạn lớn đối với khu vực, đặc biệt nếu tình trạng này kéo dài.


Nguyên nhân của nó chủ yếu là ở trong nước. Lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc, chiếm 25-30% nền kinh tế nước này, đang bị khủng hoảng. Giá bất động sản, vốn đắt nhất trên thế giới tính theo thu nhập, đang giảm xuống, cùng với doanh số bán. Người tiêu dùng đang hạn chế chi tiêu vì phải trả nợ và đối mặt với tình trạng giảm phát. Điều này không khuyến khích tiêu dùng.


Bị gánh nặng bởi công suất dư thừa, nhiều công ty Trung Quốc miễn cưỡng đầu tư. Với xuất khẩu yếu vì tăng trưởng toàn cầu đang chậm lại và những hạn chế thương mại, kích thích tài chính dường như là lựa chọn còn lại duy nhất. Tuy nhiên, việc đó cũng có những hạn chế: Các chính quyền địa phương phụ thuộc vào việc bán đất để có được phần lớn doanh thu của họ cũng đang thiếu tiền để chi tiêu, và Bắc Kinh cảnh giác với việc tung ra một gói kích thích trên diện rộng như năm 2008 do nợ công đã ở mức cao, lợi nhuận giảm do bơm thêm vốn và bất động sản dư thừa. Kích thích tài chính có thể diễn ra dưới hình thức các biện pháp có mục tiêu nhằm cung cấp cứu trợ cho những lĩnh vực gặp căng thẳng, nhưng việc đó tốt nhất cũng chỉ giữ ổn định tăng trưởng ở mức thấp lịch sử.


Sự giảm tốc trường kỳ


Một số nhà kinh tế lo sợ rằng sự giảm tốc của Trung Quốc có thể kéo dài. Tiến sĩ Adam Posen, Chủ tịch Viện kinh tế quốc tế Peterson, cho rằng đó là “đại dịch COVID-19 kéo dài về kinh tế”. Richard Koo thuộc Viện nghiên cứu Nomura ở Tokyo chỉ rõ trong một báo cáo nghiên cứu gần đây rằng giống như Nhật Bản đầu những năm 1990, Trung Quốc phải đối mặt với nguy cơ “suy thoái bảng cân đối kế toán”, trong đó người tiêu dùng và doanh nghiệp tập trung vào việc sửa chữa bảng cân đối kế toán của họ thay vì chi tiêu hay đầu tư. Nếu điều này xảy ra trên quy mô lớn, thì nền kinh tế Trung Quốc sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phục hồi, có thể mất nhiều năm.


Để phù hợp với xu hướng hướng nội ngày càng tăng, Chính phủ Trung Quốc muốn thay đổi động lực thúc đẩy chính của tăng trưởng kinh tế nước này từ đầu tư sang tiêu dùng hộ gia đình vốn chỉ chiếm 40% GDP – nằm trong mức thấp nhất trên thế giới. Nhà kinh tế Michael Pettis thuộc Đại học Bắc Kinh cho rằng việc chuyển sang tăng trưởng được thúc đẩy bởi tiêu dùng sẽ đòi hỏi sự chuyển giao nguồn lực rất lớn, tới ít nhất 10 điểm phần trăm của GDP, từ khu vực nhà nước sang khu vực hộ gia đình, thông qua việc tăng lương cho người lao động, lợi ích tốt hơn và chuyển thuế.


Trong một bài viết trên Carnegie Endowment for International Peace đầu năm nay, ông chỉ rõ đó là “một sự thay đổi lớn trong sức mạnh chính trị tương đối của các khu vực khác nhau của nền kinh tế và một sự chuyển đổi lớn trong các thể chế xã hội, chính trị và kinh tế có liên quan của đất nước”. Điều đó không phải là không thể, nhưng sẽ khó thực hiện về mặt chính trị, và sẽ diễn ra một cách chậm rãi nếu có.


Ngoài tình trạng mất cân bằng trong nước, nền kinh tế Trung Quốc đang bị tác động bởi những rạn nứt địa chính trị, đặc biệt là với Mỹ – nước cũng có ảnh hưởng sâu sắc đối với châu Á. Kể từ năm 2018, Trung Quốc đã phải chịu thuế quan đối với nhiều loại sản phẩm và ngành công nghiệp. Nước này cũng đang phải đối mặt với những hạn chế đối với chuyển giao công nghệ, trong đó có chất bán dẫn cao cấp và trang thiết bị liên quan.


Ngoài ra, Mỹ và châu Âu đã sử dụng các chính sách “giảm rủi ro” trong thương mại, nhằm mục đích tránh phụ thuộc quá mức vào bất kỳ quốc gia nào đối với các mặt hàng nhập khẩu then chốt. Trung Quốc, nguồn gốc của nhiều mặt hàng nhập khẩu như vậy, là nước bị ảnh hưởng nhiều nhất từ động thái này. Giảm thiểu rủi ro bao gồm các chính sách khuyến khích “đưa về trong nước” – di dời cơ sở sản xuất trở về nước – cũng như “đưa về nước thân thiện”, theo đó một số cơ sở sản xuất được chuyển đến các quốc gia “có liên kết về chính trị”.


Chính sách “đưa về trong nước” đi kèm với sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ – chẳng hạn thông qua các chính sách tạo thuận lợi cho các nhà sản xuất trong nước đối với các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến biến đổi khí hậu cũng như chất bán dẫn ở cả Mỹ và châu Âu. Những chính sách này sẽ gây bất lợi cho các nhà sản xuất châu Á, những nước có thể sản xuất các sản phẩm này một cách cạnh tranh hơn.


Tuy nhiên, một số quốc gia châu Á cũng được lợi từ việc đa dạng hóa sản xuất khỏi Trung Quốc. Điều này thể hiện rõ ràng trong các dòng chảy thương mại. Ví dụ, Ngân hàng Thế giới cho rằng trong khi Trung Quốc bị giảm hơn 4 điểm phần trăm trong tỷ trọng nhập khẩu của Mỹ trong giai đoạn 2018-2022 với sự sụt giảm lớn nhất trong ngành điện tử, thì các nền kinh tế thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) như Việt Nam, Thái Lan và Indonesia lại gia tăng tỷ trọng nhập khẩu của họ vào Mỹ, chủ yếu là hàng điện tử.


Nhiều thay đổi hơn trong sản xuất có thể xảy ra. Các cuộc khảo sát mới nhất của Phòng thương mại Mỹ và Phòng thương mại châu Âu ở Trung Quốc chỉ ra sự gia tăng mạnh mẽ về tỷ lệ các công ty hoặc đã bắt đầu thực hiện hoặc có kế hoạch chuyển đầu tư khỏi Trung Quốc hay giảm nguồn cung ứng đầu vào từ Trung Quốc.


Tuy nhiên, các công ty Trung Quốc đang thích nghi với việc định hình lại chuỗi cung ứng. Aaditya Mattoo, nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, cho rằng mối quan hệ giữa nhiều công ty trong số này và các công ty ở phần còn lại của châu Á đang được định hình lại. Trong khi trước đây các công ty châu Á cung cấp đầu vào cho Trung Quốc, thì giờ đây ngày càng có nhiều công ty Trung Quốc đang trở thành nhà cung cấp cho châu Á. Một số công ty cũng đang đầu tư vào khu vực – một phần để tránh những hạn chế thương mại và đầu tư áp dụng đối với Trung Quốc, cũng như sự không chắc chắn về quy định ở trong nước, và để hưởng lợi từ các thỏa thuận thương mại ưu đãi như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).


Đi kèm với những thay đổi trong trong chuỗi cung ứng sẽ là những thay đổi trong các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, mức độ mà châu Á, ngoại trừ Trung Quốc, sẽ được lợi vẫn chưa rõ ràng. Trong ấn bản tháng 4 về Triển vọng kinh tế thế giới, IMF ước tính FDI đã giảm gần 20% trong giai đoạn hậu đại dịch COVID-19 từ quý II/2020 đến quý IV/2022, nhưng họ cũng bổ sung rằng mức suy giảm là không đồng đều giữa các khu vực. Báo cáo chỉ rõ: “Châu Á trở nên ít liên quan hơn, cả với tư cách là nguồn gốc lẫn là nơi thu hút FDI, mất thị phần so với hầu hết các khu vực khác”.


Dòng vốn FDI vào châu Á trong các ngành quan trọng chiến lược như chất bán dẫn tiên tiến, một số loại dược phẩm và công nghệ liên quan đến pin bắt đầu suy giảm vào năm 2019, và đến quý cuối cùng của năm 2022, châu Âu đã nhận được lượng đầu tư lớn gấp đôi châu Á. Phân biệt giữa FDI “ngang” – đề cập đến các công ty nước ngoài đầu tư vào một quốc gia để phục vụ thị trường địa phương – và FDI “dọc” – các công ty đầu tư để sản xuất đầu vào cho xuất khẩu, IMF cho rằng FDI “dọc” dễ bị tổn thương hơn do sự gián đoạn trong một thế giới bị phân mảnh. Điều này cho thấy các nhà xuất khẩu linh kiện châu Á sẽ thua các nước có thị trường nội địa lớn.


Trong trung hạn, kết quả đối với châu Á từ sự giảm tốc của Trung Quốc và từ những thay đổi trong các dòng đầu tư có thể là tăng trưởng xuất khẩu thành phẩm và hàng hóa của châu Á sang Trung Quốc sẽ ở mức vừa phải; rất nhiều chuỗi cung ứng sẽ chuyển từ Trung Quốc sang Đông Nam Á; vai trò của Trung Quốc với tư cách là nhà cung cấp đầu vào cho khu vực sẽ tăng lên, cùng với FDI của Trung Quốc; và các thị trường châu Á lớn hơn bên ngoài Trung Quốc như Ấn Độ, Hàn Quốc và Indonesia sẽ là điểm đến cho FDI phương Tây.


Những rủi ro mới xuất hiện


Khi chính sách giảm thiểu rủi ro trong thương mại và đầu tư tiến triển, những rủi ro mới có thể xuất hiện. Theo Ngân hàng Thế giới, những rủi ro này có thể bao gồm các cách tiếp cận khác nhau đối với các luồng dữ liệu giữa các địa điểm, những hạn chế xuất khẩu đối với điểm đến cuối cùng – ví dụ để ngăn chặn những mặt hàng nhạy cảm của phương Tây xuất khẩu sang châu Á bị tái xuất sang Trung Quốc – cũng như những hạn chế nhập khẩu đối với nguồn cung cuối cùng, để ngăn chặn Trung Quốc tránh thuế bằng cách định tuyến xuất khẩu từ nơi khác.


Những động thái mang động cơ chính trị như vậy, cùng với các chính sách “đưa về trong nước” và “đưa về nước thân thiện”, sẽ vừa gây tổn hại cho Trung Quốc, vừa dẫn đến chi phí cao hơn cho các công ty và người tiêu dùng ở Mỹ và châu Âu. Chúng cũng sẽ ảnh hưởng đến các chuỗi cung ứng của châu Á theo những cách thức không thể lường trước. Một rủi ro khác là những hạn chế đối với các dòng chảy công nghệ nói riêng sẽ tác động đến việc chia sẻ kiến thức, điều sẽ cản trở sự đổi mới sáng tạo.


Không liên quan đến những diễn biến trong thương mại và đầu tư, nhiều quốc gia Đông Á phải đối mặt với những rủi ro liên quan đến dân số già. Ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Thái Lan, tỷ lệ dân số ở độ tuổi lao động đang giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, gây ra tình trạng thiếu hụt lao động và dẫn đến áp lực gia tăng đối với dịch vụ tài chính công do chi tiêu chăm sóc sức khỏe và lương hưu cao hơn, cũng như cơ sở thuế đang thu hẹp.


Trong những năm tới, việc triển khai tự động hóa và AI có thể giúp giảm thiểu một số vấn đề liên quan đến già hóa và tăng trưởng chậm hơn bằng cách tăng năng suất. Báo cáo tháng 4/2023 của Goldman Sach về tác động của AI chỉ rõ hầu hết người lao động sẽ được bổ sung, chứ không phải bị thay thế, bởi AI, nhưng sẽ có những khác biệt tùy theo lãnh thổ. Báo cáo này ước tính tỷ lệ việc làm tương đương toàn thời gian được tự động hóa bằng AI sẽ là gần 25% ở Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc; hơn 20% ở Đài Loan và Malaysia; 15% ở Trung Quốc và Thái Lan; 12% ở Ấn Độ và Việt Nam. Báo cáo chỉ rõ: “Tuy nhiên, mức độ áp dụng tự động hóa càng cao thì tiềm năng tăng trưởng năng suất trong giai đoạn 10 năm càng lớn”.


Mặc dù vậy, trong báo cáo năm 2023 về Xu hướng triển vọng tuyển dụng và xã hội thế giới, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cảnh báo rằng AI và các hình thức tự động hóa khác chỉ có thể ảnh hưởng tích cực đến năng suất khi người lao động có trình độ học vấn và kỹ năng sử dụng chúng.

 

Bởi vậy, việc nâng cao và đào tạo lại kỹ năng “sẽ có ý nghĩa thiết yếu đối với việc thực hiện và phổ biến các công nghệ mới, cũng như hiện thực hóa những thành quả của năng suất”. Điều này sẽ đặt ra thách thức, đặc biệt đối với các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Trong báo cáo năm 2016 về tự động hóa ở các nền kinh tế đang phát triển của ASEAN, ILO cảnh báo rằng lương và trình độ tay nghề thấp ở Campuchia, Indonesisa, Thái Lan và Việt Nam sẽ không khuyến khích tự động hóa nơi làm việc.


Mike Spence, người đoạt giải Nobel kinh tế, cho biết mặc dù ông lạc quan về tác động của AI và tự động hóa về lâu dài, nhưng nó sẽ cần thay đổi theo cách thức các tổ chức hoạt động, cũng như các mô hình kinh doanh và học hỏi mới – tất cả đều cần thời gian. Ông nói: “Có tiềm năng là một chuyện, việc nó có được triển khai đầy đủ và thể hiện theo cách các nền kinh tế vận hành hay không lại là chuyện khác”.


Cuối cùng, không có phân tích nào về tương lai châu Á có thể hoàn thiện mà không tính đến tác động của biến đổi khí hậu. Những thực tế ở đây gây kinh ngạc. Vô số nghiên cứu đã ghi nhận khả năng dễ bị tổn thương của lục địa này trước những rủi ro khí hậu, chẳng hạn như mực nước biển dâng cao, lũ lụt và lốc xoáy do mật độ dân số và hoạt động kinh tế cao dọc theo các bờ biển. Hơn một nửa thiệt hại hàng năm do thiên tai trên toàn thế giới xảy ra ở Đông Á và Thái Bình Dương.


Ngân hàng Thế giới ước tính nếu không có những nỗ lực thích ứng lớn, thì chỉ riêng lũ lụt kinh niên có thể khiến Indonesia, Việt Nam, Philippines và Trung Quốc mất đi 5-20% GDP vào năm 2100. Hầu hết các quốc gia châu Á cũng đều dễ bị tổn thương trước sóng nhiệt với ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, mùa màng, cơ sở hạ tầng và cuối cùng là khả năng sống. Điều này đỏi hỏi phải có hành động cấp bách trong các lĩnh vực từ việc phát triển các kế hoạch hành động ứng phó với nắng nóng cục bộ đến những thay đổi trong thiết kế và xây dựng đô thị.


Trong quá khứ, châu Á đã vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế và các cuộc khủng hoảng khác, và nổi lên là khu vực năng động và tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Nhiều người hy vọng đây là “thế kỷ châu Á”. Tuy nhiên, trong một thế giới đang rạn nứt và phải đối mặt với nhiều gián đoạn, khu vực này sẽ cần tất cả năng lực thích ứng, sự kiên cường và khả năng đổi mới sáng tạo để biến những giấc mơ đó thành hiện thực./.

 

Thoibaovietuc.com/Nguồn The Straits Time

Copyright © 2022 Thời báo Việt Úc. All Rights Reserved

Mail
Zalo
Hotline

Hotline

SMS

Zalo Chat

Fanpage