Những thách thức lớn với Israel sau 3 tháng chiến tranh

Thứ Bảy, 21/06/2025

10:11 pm(VN)

-

1:11 am(AU)

dropdown weather

Đang hiển thị

Thành phố khác

Rao vặt
VN EN

Những thách thức lớn với Israel sau 3 tháng chiến tranh

16/01/2024

Trang mạng fairobserver.com đăng bài viết nhận định Israel hiện phải đối mặt với nhiều thách thức lớn từ bên ngoài cùng với nhiều vấn đề trong nước. Chính quyền Benjamin Netanyahu vẫn chưa tìm ra cách quản lý Dải Gaza sau khi kết thúc cuộc chiến chống Hamas.

 

Việc điều hành Dải Gaza sẽ cần đến sự hỗ trợ của Mỹ, châu Âu và các nước Arập. Để nhận được trợ giúp từ cộng đồng quốc tế, Israel sẽ phải trả lời nhiều câu hỏi hóc búa về giải pháp hai nhà nước – giải pháp mà Netanyahu kịch liệt phản đối.


Israel vẫn tiếp tục chiến đấu với lực lượng Hamas ở Dải Gaza. Nhiều người đặt câu hỏi về việc nước này sẽ mất bao lâu để có thể thực sự đẩy lùi sự phản kháng đầy ngoan cố của Hamas. Tuy nhiên, nhiều rắc rối khác đối với nhà nước Do Thái sẽ sớm xuất hiện. Hiện vẫn chưa rõ Israel sẽ dành sự chú ý tới mức độ nào cho những vấn đề này, nhưng chúng sẽ tác động lớn đến kết cục của cuộc xung đột.
 

Khi tiến hành tấn công quân sự ở Dải Gaza để đáp trả cuộc tấn công đẫm máu của lực lượng Hamas vào miền Nam Israel ngày 7/10/2023, Israel có lẽ đã không lường hết được những thách thức mà chiến dịch quân sự này gây ra. Nổi lên trong số đó là 2 yếu tố: khoảng thời gian cần thiết để quân đội Israel tiêu diệt Hamas, cụ thể là triệt tiêu năng lực của Hamas trong việc đe dọa Israel, và gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Hamas ở Dải Gaza, dải đất nhỏ hẹp với hơn 2,2 triệu dân Palestine. Israel đã vô hiệu hóa gần như toàn bộ quyền lực của Hamas tại Dải Gaza, nhưng chính giới chức Israel cũng phải thừa nhận rằng việc phá hủy năng lực quân sự của Hamas sẽ là cuộc đấu tranh kéo dài nhiều tháng, có thể đến hết năm 2024 hoặc lâu hơn.
 

Lực lượng Hamas đã cố thủ ở Dải Gaza suốt 16 năm. Mạng lưới cơ sở hạ tầng tổ chức xã hội của nhóm này rất sâu rộng và phức tạp. Hơn nữa, việc tăng cường tuyển mộ và huấn luyện binh sĩ đã khiến quân số của lực lượng chiến đấu này lên đến hơn 30.000 người.
 

Sau 3 tháng, Israel tuyên bố đã tiêu diệt khoảng 8.000 tay súng Hamas. Tuy nhiên, con số thương vong của Hamas chỉ bằng 1/3 tổng số người Palestine thiệt mạng ở Dải Gaza do cuộc tấn công quân sự từ Israel, ước tính khoảng 22.300 người, chưa kể khoảng 7.000 người vẫn bị chôn vùi và chưa được tìm thấy trong đống đổ nát của các tòa nhà bị đánh sập ở Dải Gaza. Các vụ ném bom, pháo kích của Lực lượng phòng vệ Israel (IDF) cũng hủy hoại bộ mặt vùng đất này. Có 300.000 trên tổng số 440.000 căn nhà (tương đương 70%) cùng với 18% công trình kiến trúc ở Dải Gaza bị phá hủy. Tờ Wall Street Journal mô tả Dải Gaza chính là “Dresden thời hiện đại”, ám chỉ việc thành phố của Đức từng bị san bằng sau vụ ném bom ồ ạt của quân đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
 

Chỉ trích nhằm vào Israel gia tăng


Ngoài việc tiếp tục phải giao tranh với Hamas, Israel còn phải đối mặt với sự chỉ trích ngày càng tăng từ cộng đồng quốc tế khi gây ra tổn thất quá mức về người và hủy diệt cơ sở hạ tầng ở Dải Gaza. Nhiều thành viên Liên hợp quốc, thậm chí cả trong Hội đồng Bảo an, nhiều lần lên tiếng kêu gọi thiết lập thỏa thuận ngừng bắn tức thời. Israel phản bác lời kêu gọi này vì cho rằng việc ngừng bắn chỉ tạo ưu thế cho Hamas. Theo quan điểm của Israel, việc ngừng bắn giúp Hamas duy trì lực lượng và sự hiện diện ở Dải Gaza. Điều đó chẳng khác nào trao chiến thắng cho tổ chức khủng bố này. Là nước ủng hộ lớn nhất và quan trọng nhất của Israel, Mỹ đồng tình với đánh giá của Israel và đã ngăn chặn nhiều nghị quyết kêu gọi ngừng bắn được đưa ra thảo luận tại Hội đồng Bảo an.
 

Tuy nhiên, sự ủng hộ của Mỹ đối với Israel tại Liên hợp quốc cũng như trên chiến trường thông qua viện trợ vũ khí, đạn dược cho Israel cũng gây tổn hại cho Mỹ. Chính sách của Mỹ đối với xung đột Dải Gaza đã khiến Mỹ mâu thuẫn với phần lớn cộng đồng quốc tế và bị chỉ trích là đạo đức giả, thích áp đặt tiêu chuẩn kép. Những người phản đối Mỹ lấy dẫn chứng việc Mỹ kêu gọi lên án Nga xâm lược Ukraine, nhưng lại phớt lờ những lời kêu cứu của người Palestine trong cuộc chiến chống “Israel xâm lược”.
 

Kể từ khi nhậm chức cách đây 3 năm, Chính quyền Biden đã nỗ lực tối đa để lấy lại hình ảnh gắn kết với đồng minh và cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước Nam bán cầu. Mỹ dưới thời Biden luôn tìm cách sửa sai cho hai thảm họa chính sách đối ngoại gắn với sự can dự của Mỹ ở nước ngoài đầu thế kỷ 21 – đó là cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan. Sự hỗ trợ dành cho Israel giờ có thể gây ra một vết nhơ khác cho Mỹ trong các vấn đề quốc tế vào đúng thời điểm nước này không thể tiếp nhận thêm cú giáng nào khác.
 

Thế nhưng, thiện chí mà Biden thể hiện trong thời điểm đầu xung đột giờ có lẽ đang được đền đáp. Biden đang phải ứng phó với sức ép không chỉ trên trường quốc tế mà còn cả trong nước, kể cả từ chính nội bộ đảng Dân chủ cầm quyền trong năm bầu cử. Biden và đội ngũ quan chức dưới quyền đang tăng sức ép buộc Israel kiềm chế gây tổn thất tại Dải Gaza. Đơn cử, phía Mỹ yêu cầu Israel tấn công mục tiêu chính xác hơn, giảm mức thương vong ngoài ý muốn. Israel đầu tháng này ra thông báo rút 5 lữ đoàn bộ binh khỏi vùng chiến sự ở Dải Gaza một phần do yêu cầu từ Mỹ. Kể từ thời điểm này, IDF sẽ phải tìm cách đạt được mục tiêu của mình trong khi giảm các cuộc không kích và pháo kích, giảm huy động bộ binh và quan trọng nhất là giảm thiệt hại về người Palestine ở Dải Gaza.
 

Nhiều thách thức khu vực
 

Những lo sợ về một cuộc chiến tranh đa mặt trận cuối cùng cũng không thành hiện thực. Tuy nhiên, Israel nhận thấy mình (cùng với đồng minh, then chốt nhất là Mỹ) đã can dự ngày càng sâu vào các chiến dịch an ninh ở Trung Đông. Bạo lực gia tăng ở Bờ Tây khi các cuộc tấn công và gây rối của người Palestine diễn ra ngày càng trắng trợn và thường xuyên hơn, vào thời điểm Israel không thể rút lại các hoạt động của mình ở Dải Gaza. Những nỗ lực nhằm dập tắt bạo lực ở Bờ Tây đã khiến hơn 320 người Palestine thiệt mạng. Làn sóng nổi dậy mới nhất này rõ ràng là được Hamas kích động và thúc đẩy do nhóm này cũng hoạt động tích cực ở Bờ Tây, dù mức độ còn hạn chế. Nhóm Hezbollah cũng có vai trò nhất định trong vấn đề này vì cho rằng sự gián đoạn là một phần không thể thiếu trong kế hoạch “Trục kháng chiến” của Iran nhằm làm gia tăng bất ổn ở trong và xung quanh Israel. Người Palestine ở Bờ Tây cũng ngày càng thất vọng với Tổng thống Mahmoud Abbas – người đứng đầu Chính quyền Palestine (PA). Họ mệt mỏi với một PA tham nhũng trầm trọng, chia rẽ và rối loạn, cũng như với đảng Fatah của Abbas, vốn không thể hiện được gì nhiều trong suốt 18 năm cầm quyền.
 

Ngoài Dải Gaza, mối quan tâm lớn của Israel tại khu vực lân cận chính là Hezbollah. Hoạt động vũ trang, trong đó có đụng độ, pháo kích dọc biên giới Israel-Liban, đã gia tăng sau ngày 7/10. Hai bên đều muốn tránh kịch bản xung đột toàn diện như từng diễn ra vào năm 2006, nhưng hành vi của Israel và Hezbollah cho đến thời điểm này đều cho thấy nguy cơ gia tăng leo thang. Việc Israel mạo hiểm tấn công bằng máy bay không người lái vào ngày 2/1 nhằm tiêu diệt thủ lĩnh cấp phó của Hamas là Al Arouri tại Beirut có thể sẽ châm ngòi cho cuộc xung đột lớn giữa Israel và Hezbollah. Tổng thư ký Hezbollah, Hassan Nasrallah, đã lên tiếng loại trừ khả năng chiến tranh toàn diện với Israel, chọn cách tiếp cận đáp trả tương xứng với vụ tấn công. Tuy nhiên, căng thẳng gần biên giới vẫn nguy hiểm.
 

Ngoài Bờ Tây và Hezbollah ở miền Nam Liban, Israel còn phải đối mặt với các cuộc tấn công ngày càng tăng từ các lực lượng ủy nhiệm trong “Trục kháng chiến” tại Syria và Iraq. Các nhóm vũ trang thân Hamas tại đây liên tục tấn công vào các căn cứ quân sự của Mỹ ở Iraq và Syria. Ở hướng Biển Đỏ, phiến quân Houthi ở Yemen đe dọa hoạt động vận tải biển trên tuyến thương mại chính của thế giới kết nối châu Á với châu Âu. Liên minh “Người bảo vệ thịnh vượng” gồm 14 nước do Mỹ đứng đầu ngày 3/1 cảnh báo Houthi cần dừng ngay hoạt động tấn công nhằm vào tàu thương mại, nếu không sẽ phải đối mặt với hệ quả nghiêm trọng. Những hoạt động đó có khả năng dẫn đến các cuộc tấn công vũ trang nhằm vào căn cứ của Houthi ở Yemen, từ đó khơi dậy và thậm chí mở rộng cuộc nội chiến vốn đã kéo dài gần 9 năm tại quốc gia này. Cho đến gần đây, cuộc chiến này đã cho thấy những dấu hiệu hứa hẹn sắp đi đến hồi kết, ít nhất là liên quan đến sự tham gia của các nước bên ngoài.
 

Đối với Israel, Houthi chưa phải là mối đe dọa thường trực. IDF trên thực tế kích hoạt hệ thống phòng thủ tên lửa, bắn chặn tên lửa của Houthi nhằm vào Israel. Xung đột Israel-Houthi ở thời điểm hiện tại vẫn nằm trong tầm kiểm soát và nhiều khả năng sẽ không leo thang.
 

Houthi là lực lượng gây hấn, nhưng nhân tố đứng sau mới thực sự là mối đe dọa lớn. Iran đã sử dụng lực lượng ủy nhiệm để triển khai hoạt động đánh lạc hướng hiệu quả đối với Israel, buộc Israel và đồng minh thân cận nhất là Mỹ phải kéo căng lực lượng. Bằng việc phái tàu chiến vào Biển Đỏ, Mỹ thực tế tham gia chiến trường nhân danh Israel. Ý định của Iran là đưa Nhà nước Cộng hòa Hồi giáo này đạt tới vị thế lãnh đạo khu vực thực thụ. Iran sẽ là bên quyết định leo thang hay xuống thang các xung đột ở miền Nam Liban và Biển Đỏ, phù hợp với lợi ích của Tehran. Cả Mỹ và Israel đều chưa tìm ra cách thức vô hiệu hóa quyền lực và ảnh hưởng của Iran ở khu vực. Thế nhưng, chắc chắn hoạt động quân sự ngày càng tăng của Mỹ sẽ gây ra hệ lụy khó đoán tại khu vực và tại chính nước Mỹ. Điều này sẽ được thể hiện rõ nét khi Mỹ bước vào kỳ bầu cử tổng thống năm 2024 vốn đã đầy biến động.
 

Vấn đề trong nước
 

Thách thức bên ngoài đối với Israel có thể mờ nhạt hơn so với khó khăn trong nước. Tỷ lệ ủng hộ Thủ tướng Benjamin Netanyahu ngày một thấp. Các cuộc thăm dò cho thấy có khoảng 70%-80% cử tri muốn ông từ chức sau khi chiến tranh kết thúc và chỉ có 15% muốn ông tiếp tục tại nhiệm sau cuộc chiến. Netanyahu cũng hứng chịu thất bại về tư pháp. Ngày 1/1 vừa qua, Tòa án Tối cao Israel đã ra phán quyết lịch sử bác bỏ kế hoạch cải cách tư pháp gây tranh cãi của Chính quyền Netanyahu. Lý do là gói cải cách từng được Quốc hội Israel thông qua hồi tháng 7 vừa qua đã lược bỏ một điều khoản quan trọng cho phép tòa án bác bỏ các quyết sách của cơ quan hành pháp và lập pháp nếu xét thấy có sự "bất hợp lý" hoặc chưa được xem xét kỹ lưỡng. Động thái này phủ bóng đen lên quyền lực lãnh đạo của Netanyahu. Ít có khả năng ông phải từ chức giữa chừng cuộc chiến ở Dải Gaza, nhưng không được loại trừ kịch bản này, đặc biệt là nếu tòa án tuyên bố Netanyahu phạm tội hối lộ, lừa đảo và phá vỡ lòng tin.
 

Câu hỏi lớn nhất quan trọng hơn cả số phận chính trị của Netanyahu đang dần thành hình: Điều gì sắp xảy ra? Netanyahu từng tuyên bố Israel sẽ chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh ở Dải Gaza thời hậu chiến. Điều đó sẽ gây tổn thất lớn khi chiến tranh ước tính sẽ làm giảm 2% GDP trong năm 2024. Đây không phải là trách nhiệm Israel có thể hoặc mong muốn gánh vác vô thời hạn. Vậy sẽ là ai nếu không phải Israel? Netanyahu bác bỏ ý tưởng để lực lượng an ninh của PA đảm trách an ninh ở Dải Gaza khi mà PA vẫn còn chưa quản lý hiệu quả khu vực Bờ Tây.
 

Ngoài ra còn câu hỏi liên quan đến việc quản lý Dải Gaza khi Hamas bị loại bỏ. Người Palestine và cộng đồng quốc tế đương nhiên sẽ phản đối vai trò của Israel. Ý tưởng này gợi nhớ đến hoạt động định cư, thậm chí là sáp nhập – hai cụm khiến cả hai nhóm trên đều nổi giận. Cũng phải lưu ý rằng Israel nhiều khả năng cũng không muốn đảm trách việc quản lý Dải Gaza. Việc điều hành hiệu quả một vùng vùng đất quá đông dân cư và hiện vô cùng nghèo khó với nền kinh tế bị tàn phá là nhiệm vụ quá khó với Israel. Chỉ cần mường tượng về chi phí cùng với những vấn đề đau đầu gắn với xây dựng, vận hành bệnh viện, trường học, đường sá, hệ thống nước sạch, nước thải… cũng đã thấy rõ thách thức. Cùng với đó là việc thuê tất cả nhân viên là người bản địa để phục vụ hoạt động này cũng như nền hành chính công. Đó sẽ là cơn ác mộng đối với các nhà quản trị Israel.
 

Quản lý Dải Gaza thời hậu chiến – Mỹ có lời khuyên
 

Chưa có nhiều cuộc thảo luận công khai ở Israel về cách chính quyền sẽ xử lý Dải Gaza sau khi chiến tranh kết thúc. Bộ trưởng Quốc phòng Yoav Gallant mới đây phác thảo tầm nhìn của ông khi Israel kiểm soát an ninh và để cho một thiết chế Palestine “dưới sự định hướng của Israel” điều hành công việc hành chính thường ngày ở Dải Gaza. Theo Gallant, Mỹ và một số nước khác sẽ giám sát tiến trình tái thiết.
 

Kế hoạch của Gallant dù chưa trở thành chính sách chính thức của Israel nhưng có thể là bước khởi đầu, và sẽ cần đến sự đồng thuận, ủng hộ mạnh mẽ hơn trong nội bộ Israel và cộng đồng quốc tế. Mỹ, các nước khác và quan trọng nhất là người Palestine sẽ phải tham gia kế hoạch này hoặc bất kỳ cách tiếp cận nào khác nếu muốn sáng kiến thành công.
 

Về kiểm soát an ninh và quản trị hành chính ở Dải Gaza, Israel không có lựa chọn nào khác ngoài việc hướng sang cộng đồng quốc tế, mở đầu là Mỹ. Washington sẽ có nhiều thứ để chia sẻ với Israel từ kinh nghiệm của chính Mỹ ở Iraq và Afghanistan. Israel sẽ rút ra được từ Mỹ điều gì cần làm và quan trọng nhất là những gì không nên làm – điều mà Mỹ đã phải rất khó khăn mới có được.
 

Tái thiết Dải Gaza suy cho cùng sẽ là nhiệm vụ quá lớn và tốn kém với riêng Mỹ – nước đang lâm vào tình cảnh nợ chồng chất do thất bại từ việc tái thiết quốc gia ở Iraq và Afghanistan. Các nước châu Âu và Arập cần vào cuộc. Sự tham gia của họ là cần thiết, nhất là về cung cấp tài chính cho việc xây dựng lại vùng đất Gaza bị tàn phá nghiêm trọng. Nếu thiếu vắng sự nhiệt tình và tham gia tích cực của những bên như vậy, thì Dải Gaza sẽ không phục hồi và Israel sẽ vẫn phải bận tâm đến một láng giềng nghèo khó mà Israel không thể hỗ trợ, với sự thù địch ngày càng lớn từ cộng đồng phần lớn là dân số trẻ ngay sát biên giới Israel.
 

Không một quốc gia nào, kể cả Mỹ, có khả năng thực hiện bất kỳ điều gì Dải Gaza yêu cầu nếu không có cam kết chắc chắn từ Israel về việc chấp nhận một nhà nước độc lập cho người Palestine. Việc thừa nhận và chấp nhận thực tế này sau hơn 15 năm cố gắng né tránh hoặc phớt lờ một cách vô ích có thể là thách thức lớn nhất đối với người dân Israel và giới lãnh đạo của họ.
 

Và ngay cả khi Israel chấp nhận giải pháp hai nhà nước, thì câu hỏi về việc quản trị nhà nước Palestine trong tương lai và ai sẽ là đối tác đàm phán của Israel sẽ khó có câu trả lời. Sự hình thành và phát triển của Hamas như hiện nay là không thể chấp nhận được. PA thiếu nguồn lực, sự dẫn dắt, năng lực và sự tin tưởng của người dân Palestine. Rõ ràng còn rất nhiều việc phải làm. Người Palestine sẽ cần sự giúp đỡ đáng kể từ cộng đồng quốc tế để biến giải pháp hai nhà nước thành hiện thực.
 

Giải pháp hai nhà nước và nhiều vấn đề khác đi kèm có thể sẽ không còn bị lâm vào ngõ cụt./.

 

Thoibaovietuc.com/Nguồn fairobserver.com, vna

Copyright © 2022 Thời báo Việt Úc. All Rights Reserved

Mail
Zalo
Hotline

Hotline

SMS

Zalo Chat

Fanpage